Peptide tiểu đường

Hiện nay, thuốc peptide đã được sử dụng trong các lĩnh vực điều trị khác nhau, chẳng hạn như bệnh tiểu đường, dị ứng, chống nhiễm trùng, béo phì, chẩn đoán, ung thư, viêm khớp và các bệnh tim mạch. So với thuốc hóa học phân tử nhỏ truyền thống, thuốc peptid hoạt tính có những ưu điểm riêng biệt như: trọng lượng phân tử nhỏ, cấu trúc đơn giản và không có tính sinh miễn dịch; cơ chế hoạt động rõ ràng và ít tác dụng phụ; độ tinh khiết tổng hợp cao và tổng hợp dễ dàng. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng tổng hợp của thị trường thuốc peptide toàn cầu là trên 12% và quy mô thị trường đạt gần 20 tỷ USD, cao hơn so với thị trường thuốc nói chung. Theo Tổ chức Nghiên cứu Thị trường Minh bạch, thị trường thuốc peptide toàn cầu dự kiến ​​đạt 23,7 tỷ USD vào năm 2020, trở thành định hướng quan trọng cho hoạt động R&D thuốc mới của các công ty dược phẩm nước ngoài. Các đại gia dược phẩm Pfizer, Merck, Roche, Eli Lilly, Novartis, Sanofi, Bayer và các công ty dược phẩm đa quốc gia lớn khác đã đầu tư vào nghiên cứu và phát triển thuốc peptide trong những năm gần đây. Hiện tại, các loại thuốc peptide đại diện toàn cầu là liraglutide, dulaglutide, glatiramer acetate, leuprorelin acetate, octreotide acetate, goserelin và eserin. goserelin và exenatide, v.v.

Hiện nay các peptit chống bệnh tiểu đường bao gồm Exenatide Acetate CAS 141732-76-5, GLP-1 (7-37) CAS 106612-94-6, Glucagon CAS 16941-32-5, Dulaglutide CAS 923950-08-7, Albiglutide CAS 782500-75 -8, Liraglutide CAS 204656-20-2, Lisiraglide CAS 320367-13-3, Pramlintide Acetate CAS 196078-30-5, Tirzepatide CAS 2023788-19-2, Semaglutide Cas 910463-68-2.

Đái tháo đường là bệnh mãn tính, có nhiều yếu tố nguy cơ, cơ chế bệnh sinh phức tạp và diễn biến suốt đời. Bệnh nhân tăng đường huyết thường kèm theo tăng huyết áp, tăng lipid máu và kháng insulin. Tăng huyết áp và tăng đường huyết thường xảy ra cùng nhau, trong khi khoảng 60% bệnh nhân tăng huyết áp có thể bị tăng đường huyết hoặc dung nạp glucose bất thường.

Tiền đái tháo đường chủ yếu dựa vào các biện pháp can thiệp lối sống, và giai đoạn đầu là kiểm soát đường huyết bằng thuốc uống hạ đường huyết đại diện là metformin. Khi hemoglobin glycosyl hóa của bệnh nhân vẫn vượt quá 7 sau khi dùng liều cao thuốc hạ đường huyết, thì cần phải điều trị bằng insulin. Insulin là phần quan trọng nhất của điều trị hàng thứ ba và thứ tư và là tuyến bảo vệ cuối cùng cho bệnh nhân đái tháo đường. Trong những năm gần đây, thuốc ức chế DPP-4, thuốc chủ vận thụ thể GLP-1 và thuốc ức chế SGLT2 đã phát triển với tốc độ đáng kể.

Vào những năm 1980, peptide-1 giống glucagon (GLP-1) được phát hiện có các tác dụng sinh lý như kích thích tổng hợp và bài tiết insulin phụ thuộc vào glucose, ức chế quá trình apoptosis của tế bào B ở đảo nhỏ và ức chế bài tiết glucagon. và polypeptide tiết ra proinsulin phụ thuộc glucose (GIP) được ruột tiết ra suốt cả ngày và mức độ của chúng tăng lên sau bữa ăn. GLP-1 và GIP làm tăng tổng hợp và phóng thích insulin khi nồng độ glucose trong máu ở mức bình thường hoặc tăng cao. Hoạt động của GLP-1 và GIP bị ức chế bởi dipeptidyl peptidase DPP-IV (DPP-IV), chất này nhanh chóng thủy phân enteroglucagon và làm bất hoạt nó. Sự ức chế hoạt động của DPP-IV làm giảm sự thoái hóa của enteroglucagon, làm tăng nồng độ GLP-1 và GIP hoạt động trong huyết tương và thúc đẩy giải phóng insulin, do đó làm giảm mức đường huyết. Do đó, các loại thuốc peptide dựa trên sự ức chế DPP-IV cũng là điểm nóng để phát triển, nhưng nghiên cứu hiện tại vẫn đang tập trung vào việc phát triển và sử dụng các peptide chức năng liên quan, và chưa có loại thuốc peptide liên quan nào được báo cáo trên thị trường. Hầu hết các loại thuốc peptide đã được phê duyệt để kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân tiểu đường là chất chủ vận thụ thể GLP-1, và có 8 chất chủ vận thụ thể GLP-1 có sẵn trên toàn thế giới, đó là somalutide, exenatide, liraglutide, abilify, dulaglutide, lisnatide và benalutide. Liên quan đến somalutide, việc giảm glucose và giảm cân ở bệnh nhân tiểu đường loại 2 được điều trị bằng cách tiêm somalutide một lần mỗi tuần tốt hơn đáng kể so với giả dược, selegiline, glargine insulin U100 và exenatide phóng thích kéo dài. Và công thức hàng tuần dulaglutide, liraglutide, somalutide và exenatide là những công thức có tác dụng lâu dài, có thể duy trì trong một tuần. Tuy nhiên, có một số tác dụng ngoại ý của thuốc chủ vận thụ thể GLP-1, nhìn chung không ảnh hưởng đến việc điều trị, chẳng hạn như exelutide và liraglutide làm tăng nhịp tim nhẹ.

Showing all 10 results

This site is registered on wpml.org as a development site.